Tên di sản : Đền thờ An Dương Vương
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 1460 QĐ/VH
Giới thiệu
Đền thờ An Dương Vương và đền thờ Mỵ Châu công chúa dựng theo hướng Nam trên một khu đất rộng rãi, thoáng đoãng, cao ráo. Có kí hiệu trên bản đồ 299 xã Quảng Châu là 249. Đây là vùng đất “Loan hồi kết hợp càn mạch”. Toạ hướng vốn xưa Tiên nhẫn chữ Thiên, Bính Qui thẳng hướng Đông Nam. Sau miếu đất màu vàng, trước đền lưu sắc đỏ, cờ công hầu khắp giới mở ra. Tả Lý Ngư là cầu Kim Ngư, thuỷ chín khác xuyên sông đều chảy ngược. Hữu Long Mã là đồ Ngự Mã, án thất tinh theo úi Lệ chầu xa (Văn Thúc ước Bình Hoà).
Vào thăm đền vua Thục, từ đường số 8 thong thả trên trục đường vào đền, qua cầu Kim Ngư bắc ngang sông Điều đến cổng đền hai tầng theo kiểu chồng điêm. Với 3 cửa vào: cửa chính rộng 3,5 m, có tượng lính gác 2 bên. Trước đây, 2 võ sĩ đứng gác cửa được tạc bằng đá, nhưng đã bị gãy và được các nghệ nhân trong làng khôi phục lại bằng vôi xi măng. Hai bên cửa chính, có cửa tả, cửa hữu mỗi cửa rộng 1,5 m. Từ Nghinh môn, qua Bái đường rộng 12m, ài 17,5m đến nhà Tiền Đường (5 gian) – ngôi nhà này hiện nay chỉ còn nền móng. Quy mô cấu trúc ngôi đền hiện nay chỉ còn lại: Nhà chính Tẩm 5 gian (tạm dùng thay thế tiền đường trước kia). Nhà Cầu (2 gian) và Hậu cung (3 gian). Ba công trình trên được bố cục theo hình chữ “Công”. Ngoài ra, trước kia còn có 2 dải vũ, nay không còn.
Nhà chính tẩm: Dài 17,5m, rộng 7,5m, cao 4,5m chia thành 5 gian. Gian giữa rộng 3,20m. Về kết cấu vì kèo theo kiểu kẻo chuyền, kẻ bẩy – xà thương và xà hạ liên kết các vì kèo với nhau thành bệ khung vững chắc. Đề tài trang trí: là hoa lá cách điệu, các kẻ bẫy có chạm khắc long – ly - quy – phượng, mang phong cách nghệ thuật thế kỉ 19. Gian giữa đặt bàn thờ, hai bên bày trí các bộ bát biểu, giá treo chiêng, treo trống.
Nhà cầu: Chức năng của nó là nối liền và khép kín giữa nhà Chính Tẩm với hậu cung. Thông thường, ở 1 số đền khác, người ta không xây tường che kín mà chỉ coi nó như một hành lang che nắng. Nhưng do ở vùng biển, nơi sóng to gió lớn, nên tất cả các công trình có lối bố cục như ở đây, đều được làm khép kín.
Nhà Hậu cung: Dài 7,5m, rộng 3,5 m, cao 4,2m – chia thành 3 gian: Kết cấu vì kèo đơn giản, là nơi đặt long cung, long ngai và bài vị của “Thần”. Nhân dân địa phương thường gọi là cung cấm. Long cung được sơn son thếp vàng, chạm khắc rồng, phượng, hoa lá cách điệu.
Ngôi đền thờ Công Chúa Mỵ Châu: Cách nhà chính tẩm của đền Vua 10m. Quy mô ngôi đền không lớn, gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu cung. Nghệ thuật kiến trúc đơn giản.
Theo các cụ cao niên trong thôn Bình Hoà kể lại: trước kia trong hậu cung đặt một pho tượng đá hình người không có đầu. Chỉ phủ lên trên tượng mấy lượt lụa điều. Trong thời kì chống chiến tranh phát hoại của giặc Mỹ, ngôi đền bị pháo kích làm sập mái, và cũng từ đó đến nay khôn biết pho tượng đó ở đâu. Đến nay, đền Mỵ Châu đã được tu tạo khang trang. Giêng chỉ còn cái giếng Mỵ Châu – Trọng Thuỷ (hay còn gọi là giếng rửa ngọc) ở gần cầu Kim Ngư, phía trước đền Mỵ Châu chỉ còn dấu tích nhưng bị vùi dưới lớp bùn sông Điều.
Những hiện vật có giá trị: Có 16 sắc phong thời Lê và thời Nguyễn. Tập văn tế Thần gồm các bài: Tế Cầu Phúc, Tế An Vị, Tế thượng điền, Tế hạ điền, tế thần nông…tổng cộng có 14 bài văn tế…ngoài ra còn nhiều đồ thờ khác.